Kết hợp nghe bài giảng trên Youtube, nên đọc thêm phần Thiền tâm BI trong sách PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH THIỀN ĐỊNH (trang 103 - 118) do Sư Thanh Minh biên soạn và một số thí chủ đã ấn tống năm 2019 sẽ lợi ích hơn cho việc tu tập.
THIỀN
TÂM BI
Cũng gần giống
như thiền tâm từ, thiền tâm bi cũng là một trong bốn đề mục phạm trú, có đối tượng
là những hữu tình
- Thiền sinh phải
hướng tâm đến sự đau khổ của những chúng sinh với tác ý: Cầu mong cho họ thoát
khỏi khổ đau - thì đó là tâm bi.
- Nếu duy trì
được tâm bi liên tục trong nhiều giờ không gián đoạn, thì thiền sinh sẽ chứng đắc
an chỉ định từ sơ thiền đến tam thiền – nên được gọi là thiền tâm bi.
- Thiền tâm bi
bảo vệ thiền sinh:
+
Tránh được những nguy hiểm ở bên trong (Nó chế ngự được tâm não hại, là ác ý của
mình đối với người khác – nên tránh được những hành động, lời nói và ý nghĩ gây
hại cho những hữu tình khác)
+
Tránh được những nguy hiểm ở bên ngoài (Nó hóa giải được não hại hay ác ý của
người khác với mình - nên không bị người làm hại)
+
Thiền tâm bi hỗ trợ cho các pháp thiền cao hơn để đi đến giải thoát (Nó đè nén
triền cái về hiềm hận - nên tu tập chỉ quán được dễ dàng)
Vì vậy thiền
sinh thực hành được pháp thiền tâm từ sẽ có một cuộc sống tràn ngập tình thương
bác ái.
Phương
pháp hành thiền tâm bi
Lựa chọn đối tượng thích hợp.
Thiền sinh cần hướng tâm đến một người hay một hữu tình
nào đó đang trong tình trạng đau khổ - khổ về thân hoặc về tâm.
- Trước tiên thiền sinh hãy rải tâm từ đến
người đó: từ sơ thiền đến tam thiền – sau đó mới tác ý đến tâm bi: Cầu mong cho người này thoát khỏi khổ
đau….lặp đi lặp lại
nhiều lần cho đến khi đắc thiền. Sự chứng đắc các tầng thiền tâm bi cũng tương
tự như với sự chứng đắc các tầng thiền tâm từ.
- Sau đó thiền sinh tiếp tục rải tâm bi đến các đối tượng
khác như:
+ Người mình kính trọng
+ Người bình thường không yêu không ghét
+ Người mình ghét
+ Tất cả chúng sinh hữu tình
Hỏi: Những người không có nỗi khổ ở
hiện tại thì mình rải tâm bi đến họ bằng cách nào?
Đáp: Tất cả mọi người đều có một nỗi khổ chung đó là già, bệnh,
chết – hay còn gọi là khổ đau, sinh, tử trong luân hồi bất tận. Hãy tác ý đến những nỗi khổ
đã, đang và sẽ phải chi phối tất cả mọi người như: Cầu mong cho họ thoát khỏi khổ đau, sinh, tử…thì đó là tâm
bi.
Rải
tâm bi đến người khả kính:
- Thiền sinh thực
hành rải tâm bi đến một người mình kính trọng nhất bằng
cách hình dung ra khuôn mặt của người đó như đang ở trước
mình với tác ý: “Cầu mong cho người hiền thiện này thoát khỏi nỗi khổ đau
sinh tử”…niệm nhiều lần liên tục như vậy cho đến khi đắc thiền.
- Thực hành xong với người đáng kính thứ
nhất,
thiền sinh có thể lần lượt rải tâm bi đến người đáng kính thứ 2 – 3 – 4 - 5…10, càng nhiều càng tốt, tất cả đều vào đến tam thiền.
Rải
tâm bi đến người không thương không ghét
Tiếp theo thiền sinh sẽ hướng tâm đến một
người bình thường, không thương, không ghét và rải tâm bi theo cùng cách thức như vậy cho đến
khi chứng đắc đến tam thiền, rồi đến người bình thường thứ 2 cho đến thứ 10…
Rải
tâm bi đến người ghét
Tiếp theo thiền sinh hướng tâm đến một người mà mình từng ghét ở mức vừa vừa
và rải tâm bi như vậy cho đến tam thiền – rồi đến người ghét hơn thứ 2, thứ 3…
Phá
bỏ ranh giới
Sau khi đã rải tâm bi đến ba hạng người là: người quý kính, người bình thường,
người đáng ghét xong, thiền sinh sẽ thực hành sự phá bỏ ranh giới giữa 3 hạng
người này.
Thực
hành phá bỏ ranh giới:
- Trước tiên thiền sinh rải tâm bi cho mình: Cầu mong cho tôi thoát khỏi khổ đau, trong
khoảng thời gian chừng một phút, dù nó không thể đắc thiền, chỉ là để đồng hóa mình với mọi người.
- Sau đó rải tâm bi đến một người
đáng kính: Cầu mong cho người thiện lành này thoát
khỏi khổ đau, vào đến tam thiền.
- Rồi rải tâm bi đến một người
bình thường,
không thương, không ghét:
Cầu
mong cho người thiện lành này thoát khỏi khổ đau, vào đến tam thiền.
- Rồi rải tâm bi đến một người ghét: Cầu mong cho người thiện lành này thoát
khỏi khổ đau, vào đến tam thiền.
- Thực hành xong với một người
đáng kính, người bình thường, người ghét thứ nhất rồi, tiếp theo
thiền sinh lại rải tâm bi đến một người đáng kính, người bình thường, người ghét thứ 2, thứ 3… lần lượt vào đến tam thiền.
- Thiền sinh làm đi làm lại nhiều lần cho
đến khi tất cả những người đáng kính, người bình
thường, người ghét
cùng hiện diện dưới ánh sáng của tâm bi là thiền sinh đã thực hành phá bỏ ranh
giới thành công. Bi
tâm bình đẳng, coi tất cả mọi người đều đáng thương, đều là nạn nhân của khổ đau, sinh, tử.
Mở
rộng tâm bi
Tiếp theo thiền sinh sẽ mở rộng tâm bi ra 10 phương hướng, theo 12 phạm trù từ gần tới xa đến khắp
chúng sinh vô biên.
VD: Thiền sinh mở rộng ánh sáng sang hướng đông, lấy một đám đông chúng sinh, dù đó là người, hay thú, hay chư
thiên… làm đối tượng và rải tâm bi cầu mong cho họ thoát khỏi khổ đau…cho đến
khi chứng đắc tam thiền. Rồi lại hướng tâm sang một hướng khác, lấy một nhóm chúng sinh khác và thực
hành tâm bi cũng tương tự như vậy.
- 10 phương hướng: Hướng đông; Hướng tây; Hướng nam; Hướng bắc; Hướng đông nam;
Hướng tây bắc; Hướng đông bắc; Hướng tây nam; Hướng trên; Hướng dưới.
- 12 phạm trù gồm có:
+ Năm phạm trù không nêu rõ: Tất cả chúng
sinh; Tất cả loài có hơi thở;
Tất cả sinh vật; Tất cả mọi loài; Tất cả cá thể.
+ Bảy phạm trù có nêu rõ: Tất cả nam nhân; Tất cả nữ nhân; Tất cả thánh nhân; Tất cả phàm nhân; Tất cả chư thiên; Tất cả nhân loại; Tất cả chúng sinh
nơi cảnh giới thấp.
Hỏi: Mục đích hành thiền tâm bi là để
làm gì?
Đáp: Để đối trị tâm não hại, ác ý đối với tất cả loài hữu tình.
Hỏi: Với người quý
kính, mình không có tâm ác ý; với người bình thường, mình cũng không có ác ý; Tại sao phải rải tâm bi?
Đáp: - Người quý trọng quá thì dễ trở thành
tham ái. Tham
ái khi phải chia lìa thì bi ai khổ lụy. Hành thiền tâm bi thì sẽ vượt qua được bi ai với người
thương.
- Người bình thường thì dễ trở thành lạnh
lùng vô cảm. Hành
thiền tâm bi thì sẽ vượt qua được lạnh lùng, vô cảm với người thường.
- Vì để vượt qua bi ai với người quý kính
và lạnh lùng với người thường nên phải hành thiền tâm bi đến tất cả mọi người với
tình thương bình đẳng như nhau.
Hỏi: Với người thù
ghét, lúc nào cũng muốn cho họ đau khổ thì làm sao để phát triển được tâm bi
thương xót họ được?
Đáp: Thì phải dùng nhiều cách thức tác ý để hóa giải tâm não
hại,
ác ý
VD: Như tác ý đến sự độc hại của ác ý:
+ Người có ác tâm thì sẽ
xấu xí: Vì người ác thường thể hiện ra khuôn mặt và ánh mắt hung dữ.
+ Người ác tâm, não hại thì ngủ không ngon giấc: Vì suy nghĩ việc hại người nên tâm trạng
căng
thẳng,
khó ngủ.
+ Người sân, có tâm não hại không gặp may mắn: Vì không có ai muốn ủng hộ người có ác
tâm.
+ Người não hại thì không có tài sản: Vì thường gặp quả báo dữ, rủi ro, bất hạnh.
+ Người não hại thì
không có danh xưng: Vì mọi người đều ghét vị ấy.
+ Người não hại thì không có bạn bè: Vì mọi người đều muốn lánh xa vị ấy.
+ Người não hại thì khi chết phải tái
sinh vào cõi khổ: Vì suy nghĩ hại người là đang tạo ác nghiệp về ý, nên khi chết phải đọa vào cõi khổ.
- Nếu tác ý như vậy mà tâm não hại không lắng xuống, thì tác ý đến những quả báo của nghiệp
bất thiện: Người kia có thân hành bất thiện, khẩu hành bất thiện, ý hành bất thiện,
cho dù lúc này họ
chưa phải chịu quả báo, thì sau khi mạng chung họ sẽ phải chịu quả báo đau khổ
dưới 8 tầng địa ngục hoặc chịu khổ trong cõi ngã quỷ, hoặc chịu khổ mang thân súc sinh, hoặc phải chịu khổ ở cõi người gặp nhiều
sự bất hạnh, những điều không như ý muốn cả về thể xác và tinh thần…
-
Nếu tác ý như vậy mà sân não hại vẫn khởi lên thì phải tự chế ngự chính mình:
+ Não hại sẽ hủy hoại tâm thanh tịnh của mình – vì thế
hãy từ bỏ não hại.
+ Não hại sẽ phá hủy mọi công đức đã gây tạo – vì thế hãy
từ bỏ não hại.
+ Não hại sẽ tự hại chính mình –
vì thế nên từ bỏ não hại.
+ Não hại sẽ khiến cho người khác thù ghét lại, khiến cho oan trái chất chồng –
vì thế nên từ bỏ não hại.
+ Mọi thứ chỉ là vô thường, chuyện mâu thuẫn đã qua rồi
thì hãy buông bỏ nó đi – vì thế nên từ bỏ não hại.
+ Chiến thắng những ác ý ở trong lòng còn hơn chiến thắng
vạn quân địch – vì vậy hãy từ bỏ não hại…
- Nếu tác ý như vậy mà sân não hại vẫn
khởi lên, thì lại tác ý đến
nghiệp và quả của nghiệp:
+ Ta sân não hại là ta đang tạo nghiệp.
+ Ta sẽ là chủ nhân của nghiệp sân này.
+ Ta sẽ là thừa tự nghiệp quả của nghiệp sân này.
+ Nghiệp sân này sẽ
là thai tạng, là quyến thuộc, đi theo ta từ kiếp
này sang kiếp khác.
+ Và nghiệp sân này sẽ không dẫn đến giác ngộ viên mãn.
+ Nghiệp sân này không đạt được quả vị thanh văn.
+ Nghiệp sân này không thể sinh thiên giới.
+ Nghiệp sân này không thể sinh làm người tốt đẹp…
+ Mà trái lại nghiệp sân này sẽ dẫn đến đọa lạc, dẫn đến bất hạnh, dẫn đến những nỗi khổ trong địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, a tu la, hoặc làm người xấu
xí, bần cùng, hạ tiện…
+
Người sân hận cũng
giống như kẻ tay cầm cục than đỏ để đánh người, người chưa đau thì tay mình đã bị cháy
hoặc giống như người cầm cục phân ném người, người chưa bẩn thì tay mình đã dơ.
Vì vậy hãy dứt trừ sân hận để tránh tạo nghiệp bất thiện, tránh quả báo bất hạnh về sau.
-
Rồi lại
tác ý đến người kia đang sân hận với mình
+ Người kia sân não hại ta là họ đang tạo nghiệp.
+ Họ sẽ là chủ nhân của nghiệp sân ấy.
+ Họ sẽ thừa tự nghiệp quả của nghiệp sân này.
+ Nghiệp sân này sẽ
là thai tạng, là quyến thuộc đi theo họ từ kiếp này sang kiếp khác
+ Và nghiệp sân này sẽ không dẫn đến giác ngộ viên mãn.
+ Nghiệp sân này không đạt được quả vị thanh văn.
+ Nghiệp sân này không thể sinh thiên giới.
+ Nghiệp sân này không thể sinh làm người tốt đẹp…
+ Mà trái lại, nghiệp sân này sẽ
dẫn đến đọa lạc, dẫn đến bất hạnh, dẫn đến những nỗi khổ trong địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, a tu la, hoặc làm người xấu
xí bần cùng hạ tiện…
+ Người kia sân hận với ta cũng giống như kẻ ngược gió tung
bụi, chính họ sẽ là người dính bụi hoặc
giống như người nhổ nước bọt lên trời, rồi nước bọt sẽ rơi vào mặt họ.
Vì vậy ta hãy dứt trừ sân não hại để tránh tạo nghiệp bất
thiện,
tránh quả báo bất hạnh về sau.
- Nếu tác ý như vậy mà sân não hại vẫn khởi lên, thì nên tưởng nhớ đến những đức tính đặc
biệt của Đức Phật khi Ngài còn hành bồ tát đạo: Dù cho kẻ thù địch có ác ý muốn giết hại
Ngài,
thì Ngài vẫn giữ tâm thương xót cho họ, không hề khởi ác tâm muốn giết hại lại
họ…lòng bi mẫn thương xót hữu tình của Ngài thật đáng để ta noi theo.
- Nếu tác ý đến hạnh nhẫn nhục của Đức Thế Tôn trong quá khứ như vậy mà sân não hại
vẫn khởi lên, thì lại tác ý đến dòng sinh tử vô cùng tận: Trong dòng luân hồi sinh tử, ta vô tâm khó có thể tìm được ai chưa
từng là cha mẹ, anh chị em với ta, vì vậy ta không được khởi lên ác tâm với bất cứ một ai ở
đời.
- Tác ý như vậy mà tâm sân vẫn khởi
lên, thì dùng trí tuệ phân tích các sự thật về thân
này:
+ Thân ta và thân người
kia chỉ là 32 thể trược:
tóc, lông, móng, răng, da… ta muốn hại cái gì trong 32 uế trược ấy…
+ Thân ta và thân người kia cũng chỉ là
tứ đại: đất - nước - lửa – gió, ta muốn hại đại
nào trong 4 đại ấy.
+ Thân ta với thân người kia cũng chỉ
là 5 uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, ta muốn hại uẩn nào trong 5 uẩn ấy.
+ 5 uẩn của ta và của người kia vốn vô
thường, khổ, vô ngã, ta muốn làm hại với vô thường, hay với khổ, hay với vô
ngã kia.
Chỉ có người ngu mới có ác ý não hại. Người có trí hiểu rõ bản chất của cái thân này thì sân não hại sẽ
không có cơ hội khởi lên.
- Mặc dù đã tác ý như vậy mà sân não
hại vẫn khởi lên, thì hãy cố gắng tặng
cho người đáng ghét đó một món quà. Khi tặng một món quà, thì những hiềm hận trong lòng mình và trong lòng người
kia đều lắng xuống, dù có oan trái từ kiếp trước thì oan trái ấy cũng tiêu tan.
Như vậy pháp
bố thí sẽ hóa giải được hiềm hận nhanh nhất và hiệu quả nhất.
Hỏi: Một người
không hành thiền tâm bi, nhưng họ có tình thương với những người đang gặp đau khổ thì có phải là
tâm bi không?
Đáp: Có. Đó
là tâm bi thuộc về tâm thiện dục giới.
Hỏi: Tâm bi và thiền tâm bi khác nhau
như thế nào?
Đáp:
- Tâm bi là tình thương khởi lên khi thấy
một hữu tình khác đang phải chịu sự đau khổ với ước muốn cho hữu tình đó thoát
khỏi khổ đau.
- Thiền tâm bi cũng là tình thương như thế, nhưng khởi lên liên tục, không gián đoạn trên đối tượng đang khổ
đau đó và đạt đến trạng thái ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và an trú sơ thiền …với tầm với
tứ;
rồi vị ấy diệt tầm, tứ, chứng và an trú nhị thiền với hỷ, lạc, nhất tâm; rồi diệt hỉ, chứng và trú tam thiền,
một trạng thái mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú.
- Tâm bi thuộc về tâm thiện dục giới.
- Thiền tâm bi thuộc về tâm thiện sắc giới.
Hỏi: Công dụng của tâm bi và thiền tâm
bi khác nhau như thế nào?
Đáp:
- Tâm bi có khả năng chế ngự được tâm não
hại (muốn làm hại hữu tình) ở mức độ thấp. - Thiền tâm bi thì có khả năng chế ngự được
tâm não hại ở mức độ rất cao.
Hỏi: Một người có tâm bi mạnh thì họ sẽ
thường làm gì?
Đáp:
- Khi tâm bi khởi lên mạnh mẽ, thì sẽ khiến cho người đó ưa thích làm
việc thiện để cứu giúp những chúng sinh đang khổ.
VD: + Một người hay thương những chúng sinh đang khổ vì nghèo đói, thì siêng năng làm từ thiện.
+ Một người thương những chúng sinh
đang bị giết hại, thì ưa thích phóng sinh.
+ Một người thương những chúng sinh khi chết phải đọa vào cõi khổ, thì ưa thích giảng dạy giáo pháp, khuyên người bỏ ác, làm lành, tu dưỡng thân tâm…
Hỏi: Muốn trở thành người có lòng bi mẫn, thương xót chúng sinh thì phải làm gì?
Đáp: Phải tác ý đến những khía cạnh khổ đau của chúng sinh:
- Khổ về thân: già, bệnh, chết, đói, khát, nóng, lạnh, tai nạn,
hiểm họa…
+ Người già khổ quá thật đáng thương
+ Người bệnh khổ quá thật đáng thương
+ Người chết khổ quá thật đáng thương
+ Người bị đói khổ quá thật đáng thương…
- Khổ về tinh thần: sầu, bi, khổ, ưu, não….
- Khổ ở các đọa xứ: địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, a tu la…
+ Người kia đang sầu muội khổ quá…
+ Chúng sinh trong địa ngục khổ quá…
+ Chúng sinh sinh làm ngã quỷ đói khát khổ quá..
+ Chúng sinh sinh làm súc sinh khổ quá…
Thường tác ý đến những nỗi khổ của chúng sinh, thì người đó sẽ khởi lên tình thương
và muốn cứu giúp chúng sinh thoát khổ.
Hỏi: Mình thương yêu những người thân của mình thì có phải là tâm bi không?
Đáp: Tâm bi là lòng thương tưởng chỉ khởi lên khi thấy một chúng sinh đang thọ
khổ. Tình thương với những người thân thường là tham ái chưa hẳn là tâm bi.
Hỏi: Thế nào là sự khác nhau giữa tâm bi và sự sầu bi?
Đáp: - Sầu bi là khi gặp một chuyện không như
ý thì tâm buồn phiền, bực bội khởi lên, sinh ra hờn giận, trách móc…
- Tâm bi là tình thương khởi lên khi thấy
một hữu tình đang thọ khổ.
Hỏi: Khi có người thân gặp hoạn nạn hoặc qua đời, mình bi ai, than khóc thì có phải là tâm bi không?
Đáp: Than khóc là sầu, bi, ưu, não, một dạng phiền não nhóm sân, do phải xa lìa những thứ mình tham ái, chấp thủ nên không phải tâm bi.
Hỏi: Tại sao lại gọi tâm bi là vô lượng tâm?
Đáp: Vì tâm bi là tình thương không có giới hạn, có thể thương người, thương chúng sinh
muôn loài, dưới một tình thương bình đẳng như nhau.
Hỏi: Thực hành thiền tâm bi thì được những lợi ích gì?
Đáp: Được 11 lợi ích giống như với tâm từ:
1. Ngủ trong an ổn: Vì tâm lý thanh thản, không lo âu buồn phiền.
2. Thức trong an ổn: Vì mình không hại ai, nên không ai hại mình, không phải lo sợ bị trả thù hay tranh
đấu với ai.
3. Không có ác mộng: Vì không gieo thù, kết oán, không oan trái với ai, nên ngủ không có ác mộng.
4. Được mọi người yêu mến: Vì mình thương người, nên người thương lại mình.
5. Được chư thiên yêu mến: Chư thiên cảm nhận được tâm bi mẫn, nên cũng sinh tâm thương cảm mình.
6. Được chư thiên hộ trì: Chư thiên thường hộ trì cho những người
có tâm thiện lành, không hận, không sân.
7. Lửa, khí giới, chất độc không làm hại đến thân: Tâm bi mạnh mẽ sẽ có năng lực bảo vệ
mình khỏi những nguy hiểm từ bên ngoài.
8. Tâm dễ đắc định: Vì hại tầm là triền cái chướng ngại cho
định đã được đè nén thì rất dễ tu tập định.
9. Nét mặt khinh an: Người có tâm bi sẽ biểu hiện ra nét mặt
hiền lành, phúc hậu, dễ thương, dễ mến.
10. Khi mạng chung tâm không rối loạn: Người có tâm bi đến khi lâm chung không
có những biểu hiện sợ hãi, vì những nghiệp cho quả lúc cận tử thường là thiện nghiệp.
11. Nếu chưa đắc Niết bàn thì sẽ sinh về cõi phạm thiên: Một người đắc thiền tâm bi nếu chưa chứng
quả A
la hán thì thiện nghiệp thiền tâm bi đó sẽ cho quả, vị đó sẽ hóa sinh ở cõi phạm thiên.
Chúc mọi người từ bỏ hết tâm não hại và phát triển tâm bi mẫn, thương xót tất cả chúng sinh trong biển khổ.
(hết trích phần Thiền Tâm Bi)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét