Trong quyển PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ (bộ Nền tảng Phật Giáo của Tỳ khưu Hộ Pháp), có giải thích về Pháp hành Thiền tuệ tại trang 1 - 7 như sau:
* Pháp-hành
thiền-tuệ (Vipassanābhāvanā) là pháp- hành chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, hoàn
toàn không có ngoài Phật-giáo. Pháp-hành thiền-tuệ
có từ khi Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác có danh
hiệu là Đức-Phật Gotama xuất
hiện trên thế gian, và giáo pháp của
Đức-Phật còn đang lưu truyền trên thế gian, do nhờ các hàng thanh-văn đệ-tử
trí-tuệ của Đức-Phật, đã cố gắng tinh-tấn theo học pháp-học Phật-giáo và theo thực-hành pháp-hành Phật- giáo, nhất là thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
Theo các Chú-giải, Phật-giáo chỉ được tồn tại trên thế gian khoảng 5.000 năm mà thôi, đến nay thời gian đã trải qua 2.562 năm, Phật-giáo chỉ còn 2.438 năm.
Giáo pháp của
Đức-Phật sẽ bị suy đồi, bị tiêu hoại
dần dần theo thời gian, bởi vì các hàng thanh-văn đệ-tử không có khả năng
trí-tuệ giữ gìn duy trì pháp-học
Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo nữa, cho nên, pháp-hành thiền-tuệ (vipassanābhāvanā) sẽ bị suy đồi, sẽ bị tiêu
hoại trước.
Pháp-hành thiền-tuệ là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4
Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành 4 bậc Thánh-nhân là bậc Thánh
Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai,
bậc Thánh A-ra-hán cao-thượng trong Phật-giáo.
Vì vậy, pháp-hành thiền-tuệ là pháp-hành vô cùng
vi- tế, sâu sắc, khó hiểu về phần pháp-học lại càng khó thực-hành đúng
về phần pháp-hành thiền-tuệ.
Sở dĩ phần pháp-học
của pháp-hành thiền-tuệ khó
hiểu, là vì những danh từ ngôn-ngữ
chế-định (vijjamāna- paññatti) sắc-pháp, danh-pháp có thật-tánh-pháp.
Song thật- tánh-pháp
(sabhāvadhamma) của sắc-pháp, của danh- pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), hoàn toàn không phải là danh từ ngôn-ngữ chế-định.
Phần pháp-học
này cốt yếu là để hiểu biết, phân biệt trạng-thái, tính chất của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, cho nên phần
pháp-học này là điều thiết yếu đầu tiên đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
Phần thực-hành
pháp-hành thiền-tuệ lại càng khó hơn, bởi vì các đối-tượng
của pháp-hành thiền-tuệ là sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp hoặc thật-tánh-pháp (sabhāvadhamma), hoàn
toàn không phải là danh từ ngôn-ngữ
chế-định.
Định Nghĩa Vipassanā
“Rūpādi ārammaṇesu paññattiyā ca niccasukha atta- subhasaññāya ca visesena nāmarūpabhāvena vā aniccādi
ākārena vā passatī’ti vipassanā.”
Định nghĩa có 2 phần:
- Phần đầu là:
“Rūpādi ārammaṇesu paññattiyā visesena nāmarūpa- bhāvena passatī’ti vipassanā.”
Trí-tuệ đặc biệt nào thấy rõ, biết rõ các đối-tượng sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp tiếp xúc nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều là sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân- nghĩa-pháp
(paramatthadhamma), thoát ra khỏi 2 loại chế-định-pháp (paññattidhamma): Ý-nghĩa
chế-định (atthapaññatti) và danh-từ chế-định (saddapaññatti).
Trí-tuệ ấy gọi là trí-tuệ
thiền-tuệ (vipassanāñāṇa) có chi
pháp là trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với
4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ hoặc 4 đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ.
- Phần sau là:
“Rūpādi ārammaṇesu nicca-sukha-atta-subha-saññāya
visesena aniccādi ākārena passatī’ti vipassanā.”
Trí-tuệ đặc biệt nào thấy rõ, biết rõ các đối-tượng
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tiếp xúc nhãn, nhĩ, tỷ thiệt, thân, ý đều là sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân- nghĩa-pháp
sinh rồi diệt liên tục không ngừng, hiện rõ trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô- ngã, trạng-thái
bất-tịnh, nên diệt được tưởng đảo-điên (saññāvipallāsa), tâm đảo-điên (cittavipallāsa), tà-kiến đảo-điên (diṭṭhivipallāsa), cho là
thường, lạc, ngã, tịnh.
Trí-tuệ ấy gọi là trí-tuệ
thiền-tuệ (vipassanāñāṇa) có chi
pháp là trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với
4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ hoặc 4 đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ.
Hoặc
“Pañcakkhandhesu vividhena aniccādi ākārena passatī’ti vipassanā.”
Trí-tuệ đặc biệt nào thấy rõ, biết rõ ngũ-uẩn: Sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn,
hành-uẩn, thức-uẩn sinh rồi diệt, có
trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái
vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh.
Trí-tuệ ấy gọi là trí-tuệ thiền-tuệ (vipassanāñāṇa), có chi pháp là trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ hoặc 4
đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ.
Phần giảng giải
Sắc-pháp, danh-pháp là những pháp nào?
* Sắc-pháp: Rūpadhamma là pháp bị huỷ hoại do sự nóng, sự lạnh,
sự đói, sự khát, v.v… Sắc-pháp có 28 pháp.
Mỗi người bình thường không bệnh tật có đầy đủ 27 sắc-pháp.
- Nếu là người nam thì trừ sắc-nữ-tính.
- Nếu là người nữ thì trừ sắc-nam-tính.
- Nếu người nào bị mù mắt, bị tai điếc, v.v… thì trừ sắc-pháp liên quan đến bệnh tật của người ấy.
Sắc-pháp là sắc-uẩn (rūpakkhandha).
* Danh-pháp: Nāmadhamma là pháp hướng tâm biết các đối-tượng. Danh-pháp đó là tâm với tâm-sở.
- Tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm.
- Tâm-sở gồm có 52 tâm-sở.
- Tâm có 89 hoặc 121 tâm thuộc về thức-uẩn.
- Tâm-sở có 52 tâm-sở với 4 trạng-thái:
-
Đồng sinh với tâm (ekuppāda).
- Đồng diệt với tâm (ekanirodha).
-
Đồng đối-tượng với tâm (ekālambana).
-
Đồng nơi sinh với tâm (ekavatthuka).
- Thọ tâm-sở đồng sinh với tâm thuộc về thọ-uẩn.
- Tưởng tâm-sở
đồng sinh với tâm
thuộc về tưởng-uẩn.
-
50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) đồng sinh với tâm thuộc về hành-uẩn.
Như
vậy, mỗi tâm nào phát sinh, chắc chắn
có một số tâm-sở đồng sinh, đồng diệt,
đồng đối-tượng, đồng nơi sinh với tâm ấy.
Trong mỗi tâm đều có đầy đủ 4 uẩn:
-
Thọ tâm-sở (vedanācetasika) đồng sinh với tâm thuộc về thọ-uẩn (vedanākkhandha).
-
Tưởng tâm-sở (saññācetasika)
đồng sinh
với tâm thuộc về tưởng-uẩn (saññākkhandha).
-
Số tâm-sở còn lại (trừ thọ và tưởng tâm-sở) đồng sinh với tâm thuộc về hành-uẩn (saṅkhārakkhandha).
- Tâm (citta) ấy thuộc về thức-uẩn
(viññāṇakkhandha).
*
Vatthurūpa sắc-pháp là nơi sinh của tâm với tâm-sở
thuộc về sắc-uẩn.
Sắc-pháp, danh-pháp, ngũ-uẩn đều thuộc
về chân- nghĩa-pháp, là đối-tượng
của pháp-hành thiền-tuệ.
*
Paramatthadhamma: Chân-nghĩa-pháp là pháp chân- thật, có thật-tánh bất biến
thể theo thời gian và không gian, nghĩa là chân-nghĩa-pháp
nào đã phát sinh trong thời quá-khứ như thế nào thì chân-nghĩa-pháp ấy đang phát sinh
trong thời hiện-tại và sẽ phát sinh trong thời vị-lai cũng như thế ấy,
thật-tánh không hề biến thể.
Chân-nghĩa-pháp nào phát sinh nơi chúng-sinh
này, ở nơi này như thế nào, thì chân-nghĩa-pháp
ấy phát sinh nơi chúng-sinh kia, ở nơi kia cũng như thế ấy, thật-tánh không
hề biến thể.
Paramatthadhamma:
Chân-nghĩa-pháp có 4 pháp:
1-
Citta: Tâm có trạng-thái biết
đối-tượng. Tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm.
2-
Cetasika: Tâm-sở có trạng-thái luôn
luôn nương nhờ nơi tâm với 4 trạng-thái: Đồng sinh với tâm, đồng
Tâm và tâm-sở
thuộc về danh-pháp.
3- Rūpadhamma: Sắc-pháp có trạng-thái bị huỷ hoại bởi sự nóng, sự lạnh, sự đói, sự
khát, v.v… Sắc-pháp gồm có 28 sắc-pháp.
Tâm,
tâm-sở, sắc-pháp đều thuộc về pháp
hữu-vi (saṅkhatadhamma).
4-
Nibbāna: Niết-bàn có trạng-thái
tịch tịnh, vắng lặng mọi phiền-não và ngũ-uẩn, an-lạc tuyệt đối.
Niết-Bàn là pháp vô-vi
(asaṅkhatadhamma) thuộc về danh-pháp
đặc biệt, hoàn toàn khác với danh-pháp: Tâm và tâm-sở.
* Chế-định-pháp là những pháp nào?
Paññattidhamma: Chế-định-pháp là danh từ ngôn- ngữ do con người chế định, đặt ra để gọi, diễn tả cho
người khác hiểu biết được.
Chế-định-pháp cần phải nương nhờ nơi chân-nghĩa-pháp,
để chế định ra ý nghĩa, hình dạng, … rồi chế định đặt
ra danh từ ngôn-ngữ gọi ý nghĩa, hình
dạng,… ấy.
Paññattidhamma: Chế-định-pháp có 2 pháp:
- Atthapaññatti: Ý nghĩa, hình dạng, … chế định.
- Saddapaññatti: Danh từ ngôn-ngữ chế-định.
1- Atthapaññatti: Ý nghĩa, hình dạng, … chế định cho biết được sự khác biệt của mỗi pháp, mỗi
đối-tượng, có rất nhiều loại. Ví dụ:
- Nương nhờ
nơi tứ-đại (đất, nước, lửa, gió) kết
dính liền lại với nhau trở thành khối có hình dạng khác nhau như: Mặt đất bằng, núi cao, sông dài, biển rộng,
v.v…
2-
Saddapaññatti: Danh từ ngôn-ngữ chế-định đặt ra danh từ ngôn-ngữ gọi,
diễn tả làm cho người nghe biết được ý nghĩa, hình dạng của atthapaññatti ấy và hiểu biết được ý
nghĩa của atthapaññatti ấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét